Tù nhân dưới thời cộng sản...
Trong xà lim Hỏa Lò của Việt Cộng, người tù bị cùm hai chân trên bệ xi măng, bề ngang chừng 65 phân. Cùm sắt dầy và lạnh, được đóng đai kiên cố để nghiến chặt cổ chân của nạn nhân. Hai tay bị xiềng ngược ra sau, nên tù nhân phải nằm nghiêng. Và dịch, lết ra mép sàn xi măng để giải quyết nhu cầu vệ sinh, phân rơi vãi tung toé ra khỏi mặt bô đặt dưới đất. Ngày này qua ngày khác, nạn nhận bị liệt cả hai chân, và sống trong hôi thối ẩm mốc của xà lim như một con thú.
Nhưng nạn nhân còn cái mồm, nghĩa là còn được một chút tự do có giới hạn của những tiếng thều thào, những lời rên xiết, hay những tiếng la hét chưởi rủa. Và khi đó, một vật dụng kỳ quái tượng trưng cho nền dân chủ ưu việt của chế độ Cộng Sản mới được đem ra áp dụng. Đó là cái cùm mồm. Bằng sắt, có bắt đinh ốc và lò xo, để khóa cứng hàm nạn nhân. Để người tù không thể chửi chế độ, chưởi lảnh tụ hay la hét gì được nữa. Người tù đã nêu đích danh Hồ Chí Minh ra chửi, ngay giữa Hỏa Lò Hà Nội, để mong được giết, hoặc được bắn, để sớm chấm dứt cảnh dở sống dở chết của mình. Nhưng Việt Cộng, chúng không nóng ruột hấp tấp như vậy, chúng đã phát minh ra cái cùm... mồm.
Không có gì quý hơn độc lập tự do. Câu nói mới thấm thía và khốn nạn làm sao!
*
Trong dãy xà lim, tù nhân được một con chuột nhắt, gầy bé như ngón tay, chui vào thăm.
Trong tù, ngoài đá, mồ hôi và máu kết đen trên nền xi măng, còn có gì để quyến rũ một con chuột? Vậy mà con chuột đã chui vào, bị bắt, chạy thoát, rồi ít bữa sau lại bò vào. Vì ở bên ngoài, trong vùng tự do của súc vật, nó đói. Trong nhà tù, nó con hy vọng mong manh là tranh hạt cơm với người tù bị xiềng, bị liệt.
Mỗi ngày, người tù để dành vài hạt cơm cho người bạn bốn chân này. Đấy là cõi giải thoát của người tù, một chút tình cảm san xẻ với một con vật xấu số, để thấy là mình vẫn còn sống.
Con chuột nhắt này cũng có tội, nó đã bị tên công an quản giáo lấy chân di chết. Trong Hỏa Lò tù nhân không có một sự giải thoát nào, dù chỉ bằng cách kết bạn với một con chuột nhắt đã bị bẻ răng.
4
Không có gì quí hơn độc lập tự do. Câu nói mới hiểm độc và ghê khiếp chừng nào.
*
Cũng trong Hỏa Lò, tù nhân được biết đến một người đã có hình ảnh nổi tiếng thế giới. Người anh hùng Điện Biên, trong Đại đội năm xưa đã hồ hởi cắm lá cờ chiến thắng trên nóc hầm Bộ Chỉ Huy của de Castrie. Anh đã kết thúc cuộc đời vẻ vang của anh trong Hỏa Lò, như một tù chính trị. Tội của anh là đã lầm tưởng những điều Việt cộng nói là sự thật. Không, điều đó chưa phải là một cái tội. Tội của anh là đã nêu lên câu hỏi về sự thật đó. Người bộ đội gốc tiểu tư sản yêu nước này, là một điển hình của biết bao người khác đã vỡ mộng và chết kẹt, giữa những điều đảng nói và những điều đảng làm. Bị nghiền nát không âm vang.
Trong Hỏa Lò, điều ghê rợn nhất chính là sự im lặng. Đời sống im lặng và cái chết im lặng. Tất cả đều âm u một mùi tử khí của nghĩa địa. Và, khác biệt giữa sự sống và cái chết có khi chỉ là một tiếng thở nhẹ trong xà lim số 7, không ai hay biết. Làm sao con người có thể nghe thấy cái chết khi bị bao vây giữa đám quỷ sống.
Cũng vì vậy, dù chẳng được ai nói, chỉ qua những dấu vết còn ghi trên mặt đá, người tù cũng được biết nơi đây đã có thời cùm hãm Thụy An. Nhà văn nữ một thời nổi tiếng vì cái chết tức tưởi của nhà cách mạng Đỗ Đình Đạo. Cũng tưởng là mình có công với chế độ.
Trong Hỏa Lò Hà Nội, có rất nhiều người đã tưởng lầm như vậy. Họ là cán bộ, là đảng viên, là thường dân, là trí thức... Họ là chiếu rọi của xã hội bên ngoài, với những điển hình kinh hãi như dưới một ống kính hiển vi. Chỉ vì tưởng lầm.
*
Tác giả thì không nhầm lẫn về bản chất chế độ. Ông là người đã di cư vào Nam thời Genève. Ông được huấn luyện bởi Cục Tình Báo Việt Nam Cộng Hòa, thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, để tung ra Bắc hoạt động. Ông là một điệp viên, một trong những chiến sĩ của bóng tối, đã tìm ra tới Hà Nội, để thi hành những điệp vụ, cho đến nay vẫn còn được giữ bí mật.. Công tác vừa hoàn tất, thì ông bị bắt. Năm đó là năm 1962, thời mà miền Nam chúng ta vẫn còn mù mờ về thực trạng miền Bắc. Mười tám năm tù đã cho ông một kinh nghiệm hiếm có.
5
Ông đã sống, và đã thấy tận mắt với cái nhìn tỉ mỉ, những cảnh tượng, tưởng chỉ có thể xảy ra trong trí não một người bất bình thường. Một cuốn phim kinh dị được dựng lên bởi nhiều tên đạo diễn bịnh hoạn. Toàn thể chế độ Việt cộng, và trong đáy sâu của Hỏa Lò, đời sống lao tù Việt cộng, và kết quả những phát minh ghê khiếp nhất.
Nếu sự thực có vượt khỏi trí tưởng tượng của chúng ta, chỉ vì chúng ta đánh giá sai chế độ Cộng Sản, đánh giá sai cái bệnh quỷ quái của chúng.
Điều đáng nói ở đây, tác giả Đặng Chí Bình, bút hiệu hay bí danh điều đó thực không quan trọng, đã không đi vào một cuộc thi đua kinh tởm. Nghĩa là không phải nhớ lại, hay nặn ra những chi tiết ghê người nhất. Sự thật bình thường vốn đã đủ làm ta khiếp hãi...
Tác giả Đặng Chí Bình không phải là một nhà văn. Ông chưa khi nào cầm bút viết văn. Và, chính như ông tâm sự “Trước sau gì tôi cũng chỉ là một kẻ bất tài, thất bại, chẳng có gì đáng kể lại cho người khác”.
Ông chỉ bị thúc giục phải thực hiện một bản di chúc sống cho những người hiện vẫn kéo lê kiếp sống trong lao tù Việt cộng. Ông phải viết để nhắc nhở mọi người là dưới ánh mặt trời, vẫn còn một cõi mờ mịt u tối của chế độ Việt cộng phi nhân. Ông muốn thắp một ngọn nến nhỏ để soi vùng quỷ dữ, để vuốt mắt những người đã gục ngã vì đại nghĩa dân tộc, để vuốt ngực cho những người đang ứa máu bầm gan trong gông cùm Việt cộng.
Chính vì ông không muốn làm văn chương, mà chỉ viết theo ký ức được lần giở như tháo dần một cuộn chỉ từ đầu tới cuối, hồi ký của ông mới làm ta khiếp sợ. Tất cả ngôn ngữ ông dùng, lối nhìn lối nói, và cả cách đem chính mình ra hồn nhiên châm biếm. Tất cả bút pháp của ông đều phản ảnh một điều: Ông nghĩ sao, và nhớ thế nào thì viết ra như vậy. Có cái gì đó làm ta muốn run bắn lên trong cách ông thản nhiên kể lại câu chuyện.
Hơn hai mươi năm đã qua rồi. Ông bình thản lần giở cuộn chỉ của đời mình trong tù... Những tiếng rên xiết, tiếng người tra tấn người, tiếng xích lê trên sàn đá, và cả sự yên lặng cuồng nộ vẫn vang lên từng nhịp, theo giòng chỉ kéo dài từ những ngày tháng âm u của cõi chết.
Ông không làm văn chương, nhưng khi văn của ông mới làm ta rùng mình.
*
6
Tuy nhiên, điều đáng nói nhất trong hồi ký vẫn chưa phải là những mô tả về vùng đất của quỷ. Điều làm ta sững sờ nhất cũng không phải là sự sống trong cõi chết âm u, mặc dù sức phấn đấu của con người vẫn làm ta bàng hoàng theo từng trang sách.
Điều đáng nói, và đây là sự kỳ diệu nhất của tập hồi ký, chính là sự trỗi dậy của tình người trong thế giới của loài thú.
Ngay trong Hỏa Lò, đêm đêm tù nhân vẫn biết là có ai đó kín đáo qua lại giúp đỡ họ. Nhiều khi chỉ là một câu hỏi thăm ngắn gọn, lạc giọng, hoặc một tiếng thở dài thông cảm. Hay một mẩu thuốc lào được luồn qua kẽ cửa, để giúp người tù cầm máu... Vào giờ đó, chỉ có quản giáo canh giữ Hỏa Lò mới được đi lại bên ngoài. Người đó là ai? Tù nhân không biết, chỉ biết là trong đám quản giáo, vẫn còn có người có được một chút nhân tính, và lặng lẽ làm cử chỉ của con người. Lặng lẽ thôi, nếu không, chính họ sẽ bị đổi vị trí, từ ngoài vào trong xà lim.
Việt cộng muốn biến con người thành loài thú. Nơi chúng có thể thành công nhất, chắc phải Hỏa Lò Hà Nội. Nhưng, cũng tại nơi đây, tác giả đã sống và đã thấy sự chiến thắng của loài người. “Cộng sản không thể nhuộm đỏ được hết tâm hồn loài người”. Ông kết luận như vậy.
Và ông đã nhìn ra rất đúng. Vì công tác của ông chỉ có thể hoàn tất, khi ở miền Bắc có những người vẫn tiếp tục chiến đấu, từ những năm 1960. Một vị linh mục, một người bác sĩ, một thiếu nữ áo nâu quần ka ki... Và biết bao nhiêu người anh hùng vô danh khác. Ngay cả những người nông dân hồn hậu, những nạn nhân hàng đầu của chế độ Việt cộng, họ sống chật vật trong cảnh tăm tối mà vẫn có những hành động chói sáng tình người...
Sự kiện Đặng Chí Bình đã trải qua tuổi thanh xuân trong một thế giới thú vật, và đã trở lại nguyên vẹn cùng chúng ta, với những mô tả tinh nghịch, những lời nói thành thật về những lầm lẫn của chính mình, với những phê phán rất bình thản và độ lượng về thói xấu của con người, sự kiện đó cũng chẳng là một điều kỳ diệu sao?....
Ông là người đã đội mồ sống dậy, và cái sống nhất trong tác phẩm của ông, chính là cái chất “người” mà nhiều khi ông đã sợ mất, nhiều khi ông đã thấy mất ở nơi khác...
Cũng vì vậy, Thép Đen là một tác phẩm lớn. Không chỉ ở nội dung, tình tiết, mà còn ở ý nghĩa rất nhân bản của tác giả. Xin cảm ơn Đặng Chí Bình, đã tranh đấu
7
để tồn tại, để vượt thoát, và để ghi lại chon chúng ta sự thắng thế của loài người trên loài quỷ.
(Lời tựa của nhà xuất bản Đồng Tiến, năm 1987)
8 --- On Sun, 3/15/09, phuong ngo
From: phuong ngo
CÙNG NHAU CỨU NƯỚC !!!
Thưa Quý Đồng Hương đủ mọi lớp tuổi quốc nội và hải ngoại,Xét rằng* Từ năm 1945 cho đến nay 2009, ba miền nước Việt Nam đã bị Hồ Chí Minhcùng bè lũ áp đặt chủ nghĩa cộng sản với 3 chủ trương : Vô Gia Đình, Vô TônGiáo, Vô Tổ Quốc. Đó là một chủ thuyết dựa trên sự hiện hữu của loài súc vậtáp dụng vào con người khiến chúng trở thành một loại súc vật tệ hại nhất trênTrái Đất này. Tệ hại, là vì bình thường chim chóc súc vật không sát hại đồngloại, còn lũ Việt cộng này hành động vô cùng dã man như ta đã thấy. Do đó, tấtcả bản chất cao quý thuộc về Con Người gồm những nòi giống văn minh nhấtđến các chủng tộc chậm tiến nhất không bao giờ thấy trong đám cầm quyềncùng thuộc hạ của chúng. Tất cả Danh Dự, Đạo Đức, Tư Tưởng, Tài Sản, kể cảSinh Mạng… của từng tôn giáo, từng gia đình, từng cá nhân người Việt dần dầnbị cưỡng đoạt, hủy hoại, vứt bỏ, không nương tay. Thêm vào đó, để được yênthân thi hành chủ nghĩa súc vật, mười lăm tên cầm quyền man rợ cùng đám taysai đê hèn đã, đang, và sẽ hiến đất dâng biển cho đám súc vật mạnh hơn mangtên Trung Hoa, cho đến khi Việt Nam mất tên trên bản đồ thế giới. Bọn chúnghiện nguyên hình một bầy súc vật cướp của giết người không gớm tay.Xét rằng* Tai hoạ này ngự trị trên toàn cõi Việt Nam hơn nửa thế kỷ nay. Các tầng lớpngười Việt hãy còn nhân tính ở trong cũng như ngoài nước mất dần hy vọng "sẽcó thay đổi". Quả vậy, mười lăm con vật hiện cầm đầu cái gọi là "nhà nước xãhội chủ nghĩa", cùng đám tay sai mất hết nhân tính, không những không baogiờ thay đổi thú tính, mà chắc chắn sẽ đNy dân Việt và nước Việt vào tai hoạdiệt vong ! N ếu toàn dân không kịp thời đứng lên giành lại chủ quyền thì hoạmất nước không thể tránh được. Tấm gương Tây Tạng đủ cho ta thấy như vậy !Đề nghị :
_
No comments:
Post a Comment